Cty em thuộc diện hifi (hihihi) vừa là đối tượng chịu thúê (do xuất khẩu) vừa là đối tượng không chịu thuế (tiêu thụ nội địa hàng nông sản) cho cùng 1 lọai sản phẩm, do đó thúê GTGT sẽ được khấu trừ đầu vào theo tỉ lệ % xuất khấu. Trước đây tui em hạch tóan như sau: đưa vào chi phí số tiền trước thuế, còn tòan bộ tiền thuế em đưa vào nợ tk 133, đến cuối tháng tính lại tỉ lệ tiêu thụ nội địa trên tổng số thuế đâu vào và tính ngược lại có TK 133 và nợ TK 642 ( chỉ đưa chung vào 1 TK này thôi chứ không phân bổ cho từng TK chi phí vì quá chi tiết). nhưng do số này tương đối lớn nên HDQT cứ vặn hỏi vì sao lại có 1 khỏan chi phí lớn như thế và xếp em không giải thích cho họ hiểu được một cách rạch ròi cho nên xếp đã quyết định thay đổi cách hạch tóan. Đó là đưa tòan bộ số tiền thanh tóan cho nhà cung cấp vào chi phí, đồng thời làm 1 bút tóan song song nợ TK 133 và có TK 711, cuối tháng tính lại tỉ lệ tiêu thụ nội địa trên tổng số thuế giảm trừ lại thuế đầu vào và thu nhập khác nợ 711 và có 133. Đúng ra có thể lấy số dư trên 711 về tiền thuế được khấu trừ đầu vào để giảm trừ chi phí nhưng cũng không phân bổ được vì khó lấy tiêu chí nào ra để tính cho nên vẫn cứ để như vậy. Quan điểm của chú là số thuế đầu vào được khấu trừ cho phần xuất khẩu là được nhà nước ưu đãi và có thể mất đi do sau này họ thay đổi chính sách (!!!!) cho nên mới để vào TK 711.
Vậy dựa vào 2 cách trên ra kết quả hơi khác nhau 1 chút (vì tiền thuế cũng 1 phần đi vào hàng hóa và tài sản nữa) tuy nhiên nếu làm theo cách 1 thì do chi chí chưa bao gồm thuế nên tiền thuế không được khấu trừ sẽ là 1 khỏan chi phí, còn cách 2 thì ngược lại, do thúê đã bao gồm trong chi phí nên tiền thuế được khấu trừ sẽ là 1 khỏan income (hoặc giảm chi phí).
Các anh chị và các bạn ai có cao kiến gì đóng góp cho mình với
Đánh dấu